Bản ở Việt Nam Bản

Bản tương đương với làng hay thôn của người Kinh. Số dân trong bản không đồng đều, thường có từ vài chục đến vài ba trăm người với mấy chục nóc nhà và ở rải rác cách nhau vài kilomet. Các bản nhỏ không phát triển thì có thể được quy về "xóm".

Trước năm 1970 mật độ dân cư thấp, bản thường nhỏ, và có thể không có ranh giới rõ ràng, đặc biệt là những vùng chưa thực hiện định canh định cư. Từ khi quản lý đất đai đi vào nề nếp, dân số tăng, thì bản có ranh giới lãnh thổ được xác định rõ ràng. Ở đó có nơi cư trú, canh tác, bãi chăn thả súc vật, rừng, sông suối, nghĩa địa, v.v. Trong bản thường có một họ gốc, họ lớn.

Trước đây, đứng đầu là trưởng bản, điều hành công việc theo tập quán và tinh thần cộng đồng.

Ngày nay đơn vị hành chính thấp nhất có tư cách pháp nhân là cấp xã. Tại các vùng này một xã gồm nhiều bản, hoặc một bản lớn, và việc phân chia khu dân cư dưới cấp xã dựa theo bản là chính, nếu quy mô bản phù hợp.

Về sử dụng từ "bản" trong tiếng Việt

Sự phổ biến của từ "bản" ở bắc Việt Nam dẫn đến "bản" trở thành một từ trong vốn từ của tiếng Việt, với ý nghĩa là đơn vị cư trú cơ sở của dân tộc thiểu số hoặc ở vùng hẻo lánh. Từ được sử dụng mở rộng cho vùng dân tộc phi Tai-Kadai ở phía bắc, như vùng người Hmông.

Một số trường hợp sử dụng mở rộng chưa chuẩn hóa được ghi nhận là:

  • Gọi tên vùng Buôn ĐônTây Nguyên là "Bản Đôn".
  • Dùng thuật ngữ "già làng trưởng bản" để chỉ những người có uy tín trong buôn bản làng các dân tộc thiểu số nói chung ở Việt Nam.

Từ bản cũng được sử dụng khi dịch văn bản tiếng nước ngoài, vì dụ "bản của người NanaiSiberi (nước Nga)...".